Cụ Jean Baptiste Petrus Kư sanh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại
làng Vĩnh Thành, tỉnh Vĩnh Long, tên thật là Trương Sĩ Tải, con quan
Lănh binh Trương Vĩnh Trị thời Minh Mạng (1820-1840) và Thiệu Trị
Triều Nguyễn.
Năm cụ lên 2 ,
ông thân sinh cụ, quan Lănh binh, sang công cán bên Cao Miên, rồi
mất tại đấy. Cụ có người Chị cả cũng mất sớm. Gặp lúc Pháp -Nam bất
thân thiện, Đức Minh Mạng diệt tín đồ đạo Thiên Chúa, Cụ chẳng v́ lẻ
con quan mà lọt khỏi ṿng cơ hàn cực khổ. Cụ sống lây lất với người
anh và một mẹ già .
Năm lên năm cụ theo anh đi học chữ Hán ở nhà một Thầy Đồ trong làng
(v́ vậy sau này tuy thông hiểu Pháp Văn và nhiều thứ tiếng và chữ
Châu Âu, Cụ vẫn không bỏ cốt cách con nhà nho gia, xuất thân ở sơn
tŕnh cửa Khổng). Năm lên chín Cụ được một vị Linh mục tục kêu là Cụ
Tám, trước kia có nhờ ơn Ông thân sinh cụ cứu thoát chết, xin bà mẹ
đem về nuôi, dạy cho chữ quốc ngữ và bắt học các Thánh Kinh đạo Gia
Tô.Hai năm sau Cụ được vào học trường thầy gịng trên cao Miên. Nhân
dịp này Cụ được tiếp xúc với người Mên, người Lèo và học tiếng nước
họ. Cụ lại được cụ Tám gởi theo Cố Long Gaspard học tập chữ La Mă.
Thời kỳ theo Cố Long Gaspard là thời kỳ gian truân nhất : Vua Minh
Mạng muốn diệt đạo Gia Tô sai t́m bắt các giáo sĩ và các tín đồ đạo
Gia Tô. Hơn bốn năm trời Cụ theo Cố Long Gaspard trốn tránh rất khổ
sở.
Năm mười bốn tuổi Cụ được cử qua cù lao Poulo Penang học thêm tiếng
La Mă và chuyên học tiếng Hy Lạp tại trường Delalma, một trường lớn
ở Cơ đốc giáo có đủ học sinh Âu Á. Ở trường này Cụ đă tỏ ra là một
sinh viên xuất sắc, có thiên khiếu về ngôn ngữ và được giải thưởng
nhờ một bài luận văn Latin. Vốn người thông minh và hiếu học lại
được tiếp xúc với người nhiều nước Cụ nhân đây học thêm nhiều thứ
tiếng khác. Khi hết học ở cù lao Penang về, tính ra Cụ thông được
bảy thứ tiếng , mà thạo nhất là các thứ tiếng Pháp, Anh, La Mă, Tây
Ban Nha, Nhựt và chữ Hán.
Năm về nước Cụ được hai mươi mốt tuổi và phải chịu tang mẹ. Sau việc
làm chay cho mẹ được ít lâu, Cụ lấy vợ người tỉnh Gia Định và lo
viết sách soạn văn giúp ích đồng bào. Cụ cho in về Vương quốc Khmer
(1863), Chuyện Đời Xưa (1666).
Cụ
tưởng như vậy kéo dài cái đời an nhàn được, nào dè Vua Tự Đức lại
nối chí cha diệt đạo nên xảy ra việc Phó thủy sư Rigault de
Genouilly đánh phá cửa Hàn (1/9/1858) và Hạ Thành Sai G̣n
(18/2/1959). Trong nước lúc ấy loạn lạc, mùa màng thất bát, nhân dân
khổ cực, nên nhà vua mới cầu ḥa với nước Pháp. Cụ Petrus Kư v́ vậy
bị lôi ra khỏi nhàn giă, làm thông ngôn cho hai nước Pháp-Nam điều
đ́nh Ḥa Ước 5/6/1862. Khi ḥa ước kư xong Cụ xin về quê, nhưng Cụ
bị giữ lại làm thông ngôn ṭa án và đốc học trường thông ngôn Sài
G̣n.
Năm 1864, vua
Tự Đức muốn chuộc lại ba tỉnh Nam Kỳ (Biên Ḥa, Gia Định,Định Tường),
Cụ phải sang Pháp với Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản
làm thông ngôn cho nước Nam điều đ́nh chuộc lại ba tỉnh Miền Đông
Nam Kỳ. Tại Pari ,Cụ có giao du với các văn gia và khóa học gia địa
phương như E.Renan, Paul Bert …. . Do đó , sau này Cụ có chân trong
các hội của Pháp như : Hội Nhân Chủng Học và Khoa học miền Tây, Hội
Ngôn ngữ học, Hội Địa dư Paris ….. Giới học thuật đương thời xếp Cụ
vào hàng thứ mười bảy trong các nhà thông thái toàn cầu. Cụ có sang
yết kiến Đức Giáo Hoàng tại Rome.
Về nước Cụ được bổ làm giáo viên Đông phương ngữ rồi đốc học của
trường Thông Ngôn và Hậu Bổ ở Sài G̣n. Năm 1868, Cụ xin từ chức tại
các trường này. Kể từ tháng 8/1869 Cụ làm chủ bút tại tờ Gia Định
báo, là tờ báo Việt Ngữ đầu tiên với sự cộng tác của Huỳnh Tịnh Của,
Tôn thọ Tường, Trương Minh Kư. Cụ cũng trông coi luôn tờ An Nam
Chính Trị và Xă hội. Năm 1874, Cụ cộng sự với đại sứ Tây Ban Nha tại
Trung Hoa và được nhân là hội viên Á Châu hội. Năm 1874, đi công tác
ở ngoài Bắc về, Cụ có viết cuốn Voyage au Tonkin en 1876, Cụ được
cử vào Hội Đồng Thành Phố Sài G̣n. Từ 1877- 1885, cụ trước tác,
phiên âm và phiên dịch một số lượng sách vở và bài vở to tác như:
Chuyện Khôi Hài (1882), Grammaire De La Langue Annamite (1883),
Petit Dictionnaire Francais Annamite (1884), Cours D'histoire
Annamite 2 vol (1875-1877) , Histoire de la Chine, Poemce Kim Vân
Kiều truyện transcrit pour la première fois en Quốc ngữ avec notes
explicatives (1875), Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca (1875), Hịch Quảng Định
(1882) , Bất Cương Nhớ Cương Làm Chi (1882), Hịch Con Quạ (1883),
Phép Lịch Sự Annam, Sách Dạy Chữ Nho, Sách Dạy Chữ Quốc Ngữ, Kiếp
Phong Trần (1885)
Ngày 2/4/1886, thống đốc
Bắc Kỳ Paul Bert vừa sang nhậm chức ở Hà Nội bốn ngày trước đề cử Cụ
ra Huế giúp vua Đồng Khánh với chức giám quan trong cơ mật viện.
Cuối năm ấy Cụ trở về nhà ở Chợ Quán Sài G̣n. Năm sau Cụ làm giáo sư
thổ ngữ Đông Phương tại các trường Hậu Bổ và Thông Ngôn.Cũng trong
năm 1886 này Cụ rút ra khỏi hoạn trường ở tuổi 50,để trong hơn 10
năm cuối đời tập trung toàn lực vào công việc trước tác;sống một
cuộc sống thanh bạch, thiếu thốn,và trước khi qua đời để lại bài thơ
tuyệt mệnh :